
Để đảm bảo độc quyền quyền lực của mình, Đảng Cộng sản đã bẻ cong các quy tắc, cấm cạnh tranh chính trị và chi phối mạng xã hội kỹ thuật số.
THE DIPLOMAT by Tessa Weal – May 21, 2021
Ba Sàm lược dịch
Không giống như đối tác ở Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) cầm quyền không cảm thấy cần phải xua đuổi các nền tảng truyền thông xã hội, phổ biến có trụ sở tại Hoa Kỳ, khỏi mạng internet trong nước của mình.
Trên thực tế, Việt Nam là nơi có dân số sử dụng Facebook lớn thứ 7 trên thế giới. Tuy nhiên, đảng đã có thể duy trì quyền kiểm soát đối với lĩnh vực kỹ thuật số với hiệu quả đáng báo động. Bất đồng chính kiến trên mạng trực tuyến bị trừng phạt nghiêm khắc, hàng nghìn nhà bình luận ủng hộ chính phủ định hình những câu chuyện thịnh hành và hoạt động của người dùng bị giám sát chặt chẽ.
Những chiến thuật này đã được thể hiện đầy đủ trước cuộc bầu cử lập pháp ngày 23 tháng 5, dẫn đến việc lạm dụng trắng trợn chống lại người dùng và ngày càng tăng áp lực lên các nền tảng truyền thông quốc tế.
Theo nhiều cách, các cuộc bầu cử không gì khác hơn là một nghi thức tái xác nhận độc quyền chính trị đã tồn tại hàng thập kỷ. ĐCSVN là đảng duy nhất được phép trên lá phiếu. Mặc dù một số ứng cử viên độc lập đã được chấp nhận tranh cử, nhưng họ phải chịu sự kiểm tra của cơ quan do ĐCSVN kiểm soát. Trong cuộc bầu cử năm 2016, điều này dẫn đến việc hơn 100 ứng cử viên bị loại, trong đó có nhiều nhà hoạt động xã hội dân sự nổi tiếng, và ĐCSVN đã được trao 473 trong số 500 ghế trong Quốc hội.
Điểm số 18 trên 100 của Việt Nam, trong Chỉ số về Tính dễ bị Xâm phạm trong Bầu cử của Freedom House, phản ánh mức độ thấp của các quyền chính trị và khả năng đàn áp cao, cũng như lĩnh vực trực tuyến bị kiểm soát chặt chẽ.
Mặc dù các nền tảng truyền thông xã hội thường có thể truy cập được trong nước, nhưng các nhà chức trách sử dụng nhiều luật mơ hồ để trừng phạt những ứng cử viên có thể tham gia hoạt động trực tuyến.
Ngay sau khi công bố ý định tranh cử với tư cách ứng cử viên độc lập, ông Trần Quốc Khánh đã bị bắt vào tháng 3 với tội danh sử dụng Facebook Live để “xuyên tạc thông tin chống phá nhà nước, gây hoang mang dư luận“. Lê Trọng Hùng, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng khác từng tìm cách tranh cử như một ứng viên độc lập, đã bị bắt vào ngày 27 tháng 3 vì những tội danh tương tự.
Ba người bạn với nhau đã bị giam giữ và thẩm vấn trong nhiều ngày vào đầu tháng 4 liên quan đến một cuộc trò chuyện trên Facebook, trong đó họ chỉ đơn giản thảo luận về các thủ tục đề cử ứng viên độc lập.
Các nhà báo đã phải đối mặt với hình phạt thậm chí còn khắc nghiệt hơn dựa trên cáo buộc không xác thực việc phát tán tài liệu “chống nhà nước”. Phạm Chí Dũng bị kết án 15 năm tù vào tháng Giêng, trong khi hai nhà báo đồng nghiệp từ hiệp hội của ông ta bị tuyên án 11 năm.
Ngay cả khi bỏ tù những người dùng mạng xã hội nổi tiếng, chế độ này vẫn thao túng diễn ngôn trực tuyến thông qua một đội quân điện tử gồm các nhà bình luận được trả phí. Một đơn vị có khoảng 10.000 người được chính phủ thuê, được gọi là Lực lượng 47, để tuyên truyền, quấy rối những người bất đồng chính kiến và tấn công các nhân vật đối lập trên các nền tảng bao gồm Facebook và YouTube. Lực lượng 47 được cho là sẽ gửi khiếu nại hàng loạt đến các công ty truyền thông xã hội để xóa nội dung hoặc tài khoản được nhắm là mục tiêu của họ.
Một loại khác, là “những người định hướng dư luận” tham gia vào các chiến thuật tương tự trên cơ sở tự nguyện. Thông qua những nỗ lực kết hợp của họ, hai lực lượng mạng này đã tăng cường hiệu quả quyền kiểm soát của nhà nước đối với các phương tiện truyền thông truyền thống, bằng cách làm gián đoạn và bóp méo các nguồn tin tức và thông tin trực tuyến thay thế.
Trong những năm qua, chính phủ cũng đã tăng cường áp lực trực tiếp lên các công ty truyền thông xã hội. Vào tháng 11 năm 2020, nhân viên Facebook được cho là đã nói với Reuters rằng chính quyền Việt Nam đã đe dọa sẽ chặn nền tảng này, trừ khi nó loại bỏ nội dung “chống nhà nước” nhiều hơn nữa. Đầu năm nay, một số máy chủ của Facebook đã được đưa vào chế độ ngoại tuyến cho đến khi công ty chấp nhận với một lời hứa tương tự.
Những yêu cầu kiểu này đã khiến chính phủ khoe khoang trong những tháng gần đây về mức độ tuân thủ chưa từng có, viện dẫn rằng Facebook và Google đã lần lượt đáp ứng 95% và 90% yêu cầu hạn chế nội dung của Hà Nội.
Mặc dù các quan chức được hưởng lợi từ những tuyên bố bị thổi phồng về mức độ hợp tác, thì các nền tảng xã hội cũng đã xác nhận mức độ kiểm duyệt tăng đột biến. Facebook đã báo cáo mức tăng 983% qua các yêu cầu hạn chế nội dung, trong nửa đầu năm 2020. Các nhà chức trách cũng đã phạt nặng và đình chỉ các ấn phẩm kỹ thuật số do các bình luận chỉ trích trên nền tảng của họ.
Để hạn chế các hành vi đàn áp này và khuyến khích đa nguyên chính trị ở Việt Nam, các chính phủ dân chủ cần nhấn mạnh sự tôn trọng nhân quyền trong các cuộc đối thoại của họ với các quan chức Việt Nam. Các nhà ngoại giao nên chỉ ra những ví dụ tích cực, về các quốc gia trong khu vực, đã tiến hành cải cách dân chủ và đối chiếu chúng với các chế độ gây bất ổn bằng cách tập trung quyền lực một cách ngoan cố. Các nền dân chủ lớn – đặc biệt là Hoa Kỳ – nên tăng cường mạnh mẽ chính sách ngoại giao mạng để hủy bỏ các luật buộc các công ty lạm dụng quyền tự do internet.
Về phần mình, các công ty nên sử dụng tất cả các công cụ sẵn có để chống lại các yêu cầu của nhà nước hòng trừ khử những sự biểu đạt dưới hình thức bất bạo động về chính trị, xã hội và tôn giáo. Nếu họ không thể chống lại hoàn toàn, thì các công ty cũng nên hạn chế càng nhiều càng tốt, với những yêu cầu xóa tài liệu và thông báo cho người dùng về lý do nội dung của họ bị gỡ xuống. Các công ty cũng phải chống lại các yêu cầu lưu trữ dữ liệu cá nhân ở các quốc gia, nơi dữ liệu đó có thể được sử dụng để xác định và trừng phạt những người chỉ trích chính phủ.
Các chế độ tham gia vào kiểm duyệt lại được khuyến khích bởi sự im lặng của các quốc gia dân chủ và sự đồng lõa của những gã khổng lồ truyền thông xã hội.
Việc chuẩn bị cho các cuộc bầu cử ở Việt Nam đã chứng minh rõ ràng rằng ĐCSVN vẫn theo đuổi việc duy trì hiện trạng đàn áp chính trị và từ chối những lời kêu gọi cho việc có được những người đại diện của quần chúng.
Nhưng các nền tảng truyền thông xã hội, và các nền dân chủ đã phát sinh ra chúng, cũng phải nói rõ rằng chúng sẽ đẩy lùi sự đàn áp đó và tăng chi phí cho chính quyền Hà Nội.
Nếu những người dùng bình thường đủ can đảm để mạo hiểm với bản án 15 năm tù bằng cách kiên quyết bảo vệ các quyền cơ bản của họ, thì các tổ chức quốc tế hùng mạnh sẽ có can đảm để bênh vực họ.
–
Về tác giả: Tessa Weal là một nhà nghiên cứu công nghệ và dân chủ tại Freedom House, chuyên về tự do internet và bầu cử, thông qua công việc của cô trên báo cáo Tự do trên Mạng hàng năm và một dự án đồng hành mới, có tên Election Watch for the Digital Age (Theo dõi bầu cử cho Kỷ nguyên kỹ thuật số).
Liên quan: