2848. Các khoản nợ tiềm ẩn của Việt Nam với Trung Quốc bộc lộ rủi ro chính trị

Một cửa khẩu biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ảnh: Flickr

Mặc dù gánh nặng nợ Trung Quốc của Việt Nam là thấp so với một số nước láng giềng, nhưng nó vẫn là một nỗi lo đối với các quan chức Đảng Cộng sản ở Hà Nội.

THE DIPLOMATby Zachary Abuza and Phuong Vu – October 08, 2021

(Zachary Abuza là giáo sư tại Đại học Chiến tranh Quốc gia ở Washington, DC. Các quan điểm được trình bày ở đây là của riêng ông, và không phản ánh quan điểm của Trường Đại học Chiến tranh Quốc gia hoặc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.

Phương Vũ là một nghiên cứu sinh Tiến sĩ Chính trị tại Đại học Otago, New Zealand.)

Ba Sàm lược dịch

Việt Nam nổi tiếng trong việc né tránh Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc, nhưng lại là nước đã nhận hơn 16,3 tỷ USD tài trợ cho dự án của Trung Quốc từ năm 2000-2017.

Một báo cáo mới về các chương trình hỗ trợ kinh tế của Trung Quốc đã làm sáng tỏ về Việt Nam và cho thấy rằng nước này đang gia tăng gánh nặng nợ Trung Quốc, vượt xa những gì người ta thường nghĩ; tạo ra rủi ro chính trị và tác động đến các chính sách tiềm tàng của Việt Nam đối với nước láng giềng phương bắc, vốn đã dễ bị bắt nạt và đe dọa.

385 tỷ đô la trong khoản nợ ẩn của các quốc gia

Báo cáo gần đây của AidData về danh mục hỗ trợ và cho vay ở nước ngoài của Trung Quốc cho thấy, tổng cộng 385 tỷ đô la các khoản nợ được báo cáo và chưa được báo cáo. Bộ dữ liệu xem xét 13.000 dự án do Trung Quốc tài trợ trị giá 843 tỷ USD ở 165 quốc gia, từ năm 2000-2017.

Mặc dù dữ liệu bao gồm nhiều dự án không thuộc BRI, nhưng công bằng mà nói rằng các khoản cho vay và viện trợ không hoàn lại của Trung Quốc đã tăng lên đáng kể sau khi BRI bắt đầu vào năm 2013. Báo cáo cho thấy rằng chính phủ nhìn chung “đang báo cáo dưới mức các nghĩa vụ trả nợ thực tế và tiềm năng của mình đối với Trung Quốc, với số tiền tương đương với 5,8% GDP của nó.

Vậy làm thế nào mà gánh nặng nợ nần lại lớn như vậy? Điều mà AidData nhận thấy là Trung Quốc cung cấp rất ít khoản tài trợ và ngay cả việc cho vay cũng không phải là giữa các quốc gia có chủ quyền. Thay vào đó, “gần 70% khoản cho vay ở nước ngoài của Trung Quốc hiện được hướng đến các công ty nhà nước, ngân hàng quốc doanh, các tổ chức mục đích đặc thù (SPV, như đơn vị/định chế ủy thác đóng vai trò trung gian – ND), công ty liên doanh và các tổ chức khu vực tư nhân ở các nước nhận đầu tư” chứ không phải cho những phía đi vay có chủ quyền –  là các thể chế chính phủ trung ương.

Vì sao xảy ra vấn đề này?

Thứ nhất, hoạt động cho vay của Trung Quốc không hề rẻ. Thật vậy, khoản vay trung bình của Trung Quốc chịu lãi suất trên 4%, gần gấp 4 lần lãi suất cho vay từ Nhật Bản hoặc Liên minh châu Âu.

Thứ hai, Trung Quốc đã yêu cầu mức độ thế chấp cao, tài sản hoặc tiền trong tài khoản ký quỹ mà Trung Quốc kiểm soát.

Giống như chúng ta đã thấy các giao dịch hoán đổi nợ lấy vốn cổ phần ở Sri Lanka và Lào. Trong khi ngay cả Trung Quốc có thể không muốn chống lại một chính phủ có chủ quyền nếu họ không thể trả nợ, thì Bắc Kinh cũng không hề e ngại về việc các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) của họ chiếm giữ tài sản từ các đối tác của họ ở nước ngoài. Ví dụ, một DNNN của Trung Quốc đã tiếp quản một phần lưới điện của Lào, khi một DNNN của Lào không thể trả nợ cho việc xây dựng đập thủy điện.

Và mắc nợ Trung Quốc là rất lớn: 42 nước đang phát triển, bao gồm 4 nước ở Đông Nam Á (Lào, Brunei, Campuchia và Myanmar), có “mức nợ công đối với Trung Quốc vượt quá 10% GDP”.

Việt Nam thì ở đâu?

Tình hình đặc biệt nghiêm trọng đối với Việt Nam, vì nước này là nước nhận các khoản cho vay thuộc Các nguồn Tài chính Chính thức khác (OOF – các khoản vay ít ưu đãi hơn ODA) lớn thứ 8 của Trung Quốc, từ năm 2000-2017. Tổng cộng, Việt Nam đã vay 16,35 tỷ USD, chỉ đứng sau Indonesia ở Đông Nam Á. Việt Nam là nước nhận ODA ưu đãi lớn thứ 20 của Trung Quốc, chỉ 1,37 tỷ USD. Mặc dù vậy, Việt Nam từ lâu đã nghi ngờ về BRI và cho đến nay chưa có dự án cơ sở hạ tầng mới nào ở Việt Nam, trong phạm vi tài sản công cộng, được chính thức dán nhãn là một phần của BRI.

Tăng trưởng kinh tế gần đây của Việt Nam đã rất xuất sắc, với mức tăng trưởng dương hàng quý, từ năm 2000 đến giữa năm 2021, vào lúc phong tỏa vì Covid-19 tại TPHCM, trung tâm kinh tế của cả nước. Khi Việt Nam chuyển sang hấp thụ sản xuất công nghiệp thì các công ty và quốc gia tìm cách rời khỏi Trung Quốc, dẫn đến vấn đề cơ sở hạ tầng là trở ngại lớn nhất của Việt Nam.

Theo Trung tâm Cơ sở hạ tầng Toàn cầu, nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam ước tính khoảng 605 tỷ USD từ năm 2016 đến năm 2040. Khi Việt Nam trở nên giàu có hơn, hỗ trợ phát triển và cho vay ưu đãi song phương và đa phương đã tăng cao nhất. Nhu cầu rất lớn nên Việt Nam phải huy động các nguồn tài trợ nước ngoài, trong bối cảnh các dự án hợp tác công tư (PPP), xây dựng và chuyển giao (BOT) ngày càng khó khăn và ngân sách nhà nước hạn chế.

BRI có tiềm năng giúp Việt Nam giải tỏa cơn khát vốn, và Hà Nội đã công khai tán thành. Vào tháng 11 năm 2015, hai bên đã đồng ý mở rộng thương mại song phương, đặc biệt là thương mại biên giới, vì miền Bắc Việt Nam trở thành một phần trong chuỗi cung ứng của Trung Quốc. Hai bên cũng đã đồng ý thúc đẩy, mặc dù không liên kết, BRI của Trung Quốc và chiến lược phát triển Hai Hành lang và Một Vành đai Kinh tế năm 2004 của Việt Nam.

Vào tháng 11 năm 2017, Việt Nam và Trung Quốc đã ký bản ghi nhớ (MOU) về việc thực hiện chung BRI và Hai Hành lang và Một Vành đai Kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, bên cạnh việc thành lập một nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và một nhóm công tác hợp tác tài chính và tiền tệ. Lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đã tham dự cả hai diễn đàn BRI trong năm 2017 và 2019.

Nhưng, một cách kín đáo riêng tư, ban lãnh đạo và các cố vấn chính sách đã bày tỏ sự nghi ngờ nghiêm trọng. Biên bản ghi nhớ 2017 hầu như không được thực hiện vì một số lý do.

Trước hết, như đã đề cập ở trên, các khoản vay của Trung Quốc không hề rẻ. Ví dụ, các khoản vay ODA của Trung Quốc có lãi suất rất cao, trung bình 3% hàng năm. Con số này cao hơn đáng kể so với Nhật Bản (0,4-1,2%), Hàn Quốc (0-2%) hoặc Ấn Độ (1,75%).

Các khoản vay tín dụng ưu đãi từ Trung Quốc tương tự như tín dụng xuất khẩu, có điều kiện là nước nhận đầu tư phải tuân thủ một số yêu cầu liên quan đến dự án, như phải sử dụng các nhà thầu Trung Quốc, cùng với các điều khoản vay kém hấp dẫn hơn so với các nhà tài trợ khác. Trong nhiều trường hợp, điều này làm cho chi phí thực tế của khoản vay cao hơn nhiều so với giá vốn có, trong trường hợp diễn ra quá trình đấu thầu rộng rãi và cạnh tranh. Hơn nữa, các khoản vay của Trung Quốc phải chịu phí cam kết 0,5% và phí quản lý 0,5%. Thời gian cho vay và thời gian ân hạn ngắn hơn so với các bên cho vay khác, lần lượt là 15 và 5 năm.

Thứ hai, các khoản vay của Trung Quốc đi kèm với rất nhiều điều kiện bổ sung, bao gồm thiết kế và quản lý dự án của các DNNN Trung Quốc, mua công nghệ của Trung Quốc và sử dụng lao động Trung Quốc, trong khi nhiều người trong số này không bao giờ quay trở lại Trung Quốc, gây ra sự bất bình ở địa phương.

Đường sắt Cát Linh – Hà Đông: Chân nhà ga ngập tràn rác thải hôi thối

Thứ ba, các công ty Trung Quốc có bề dày thành tích về sự chậm trễ, thiếu minh bạch, vượt chi phí, hủy hoại môi trường, chất lượng xây dựng kém và chi phí bảo trì cao. Tuyến đường sắt Cát Linh-Hà Đông ở Hà Nội, dự án trị giá 866 triệu đô la, là ví dụ mới nhất về một dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc đã trở nên tồi tệ, và là nguồn gốc của sự phản đối đáng kể của công chúng.

Thật vậy, trong báo cáo của AidData, Việt Nam là quốc gia chậm thứ năm trong việc hoàn thành các dự án do Trung Quốc tài trợ, với trung bình 1.783 ngày (4,9 năm) cho mỗi dự án. Trong số 10 quốc gia hàng đầu có các dự án cơ sở hạ tầng BRI được công khai liên quan đến “bê bối, tranh cãi hoặc bị cáo buộc vi phạm”, Việt Nam đứng thứ tư, với 5 dự án, trị giá 2,75 tỷ USD.

Ý chí chính trị

Vậy tại sao Hà Nội vẫn tiếp tục tìm cách vay của Trung Quốc? Một phần đó là một tính toán chính trị, hy vọng rằng việc ràng buộc chặt chẽ hơn với Trung Quốc sẽ hạn chế được sự uy hiếp và gây hấn của Bắc Kinh.

Hà Nội không biểu lộ sự lo lắng của công chúng về việc mắc vào “bẫy nợ” với Trung Quốc. Nợ của nó vẫn có thể kiểm soát được và nền kinh tế đang phát triển đủ để giải quyết các khoản nợ. Không giống như Lào, Việt Nam có rất nhiều nguồn vốn.

Nhưng những lo ngại của Việt Nam được chứng minh rõ ràng. Hà Nội đã hạn chế các khoản nợ có chủ quyền của mình đối với Trung Quốc. Nó đã khuyến khích các cam kết không có chủ quyền, thông qua các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp nhà nước và thậm chí cả các công ty tư nhân, để giảm rủi ro chính trị của mình. Theo AidData, nợ chính phủ và các khoản vay OOF từ Trung Quốc đã lên tới 6% GDP.

Mặc dù Indonesia, xét về giá trị tuyệt đối, là nước nhận được nhiều khoản vay của Trung Quốc nhất ở Đông Nam Á, song tình hình của Việt Nam lại có vẻ đáng lo ngại hơn, xét về mặt tương đối. Mặc dù ở mức thấp, song các khoản nợ có chủ quyền và tỷ trọng OOF của Việt Nam trên GDP cũng chỉ thấp hơn Lào, Campuchia, Brunei và Myanmar.

Chừng nào mà Việt Nam còn có thể tiếp nhận được các khoản cho vay của Trung Quốc, ngay cả với lãi suất cực cao, thì tay sát thủ đòi nợ thuê (repo man) sẽ chưa tới gõ cửa. Nhưng nếu và khi hắn ta làm vậy, thì giới lãnh đạo ở Hà Nội nên tính trước một phản ứng dữ dội từ những công dân của mình theo chủ nghĩa dân tộc, những người  luôn có mối nghi ngờ Trung Quốc cao độ.  

Đó chính là rủi ro chính trị thực sự của Hà Nội.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *